
1./ Kinh Kim Cang:
VIII). HT.
TTL: Đọc suốt bộ kinh Kim Cang ta không thấy có một pháp hành nào cả, chỉ
toàn là hý luận lý thuyết suông. Cho nên nói được nhưng chưa có ai làm
được như trong kinh này, Kinh này từ xưa đến nay đã cho chúng ta ăn toàn thứ
bánh vẽ....(ĐVXP-Tập 8)
Phản biện của Toàn Không:
1). HT TTL viết rằng: “Đọc suốt bộ kinh Kim Cang ta không thấy một pháp hành nào cả, chỉ toàn
là hý luận lý thuyết suông” là không tìm hiểu kỹ càng, vì các kinh Bắc
truyền phần nhiều đều là Kinh liễu nghĩa, người đọc kinh Kim cang mà hiểu được
ý nghĩa trọn vẹn thì rất dễ để theo đó áp dụng hành trì; nếu người đọc không
nắm vững được ý Kinh thì làm sao biết áp dụng hành theo, nên tưởng rằng chỉ có
lý thuyết suông….
Nhận định: Bài “phản biện” số 4 của Toàn Không không phải là bài “phản biện”, mà là một
bài “thuyết pháp”, giảng về kinh Kim
Cang, Duy Ma Cật, của một giảng sư có
trình độ trung bình. Đây là một “bài pháp” được “thuyết” không trên căn bản tự
chứng, mà chỉ là góp nhặt tài liệu, soạn bài trước rồi nói sau! Kiểu “giảng”
này không chỉ các vị trụ trì ở bất cứ chùa nào, mà ngay cả Cư sĩ bình thường có
chút kiến thức về Phật pháp cũng có thể “giảng” được!...
Lẽ ra tôi không phải mất thời gian với bài này vì Toàn Không đã “phạm
quy”!. Ở bài số 03 tôi đã nói đến vấn đề này, nay bất đắc dĩ phải nhắc lại:
Dưới đây là lời đề nghị của BBT/TVHS được viết ngay dưới “Lời dẫn” của
Toàn Không, chứ không phải do tôi áp đặt. Tôi tạm gọi lời đề nghị này là “nội
quy”. Toàn Không đã phớt lờ “nội quy” này, phóng bút “thuyết giảng” Đại thừa,
bất chấp lời dạy Nguyên thủy của đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni trong kinh tạng
Nikaya. Chúng tôi cho rằng đó là thái độ xem thường lời đề nghị BBT/TVHS và
đánh giá quá thấp trình độ đọc và hiểu của độc giả.
“- Khi phê phán giáo thuyết và phương
tiện hành trì của các tông phái Bắc Tông Đại Thừa, HT. Thích Thông Lạc thường
dùng kinh điển Nguyên Thủy Nikaya để chứng minh. Rất mong quý độc giả dùng kinh
điển Nguyên Thủy do HT. Thích Minh Châu dịch để cũng cố luận điểm phản biện của
mình. Nếu có thể được, đừng dùng hay dùng hạn chế kinh điển Bắc Tông và Ngữ lục
của các chư Tổ Bắc Tông, vì những loại kinh sách này đã bị HT. Thích Thông Lạc
không công nhận.”
Toàn Không có quyền dùng kiến thức
Đại thừa để phản bác các luận điểm của HT TTL. Nhưng những điều ấy phải được
chứng minh trên cơ sở giáo pháp Nguyên thủy mà Bổn sư Thích-ca Mâu-ni đã tuyên
thuyết trong bộ kinh Nikaya. Cần thiết
và bắt buộc phải như thế để chứng minh những lập luận của Toàn Không cũng là
“Phật Pháp”. Ngược lại, lấy những lời Tổ dạy trong sách vở của Chư Tổ, hoặc
kinh điển phát triển do người đời sau chế tác, để “phản biện” lời HT TTL vốn
rút ra từ kinh điển Nguyên thủy Nikaya,
hóa ra Toàn Không đã dùng “Tổ pháp” để
phản bác “Phật pháp”!??? BBT/TVHS đã
thấy được điều ấy nên mới viết lời đề nghị trên…
Chúng tôi xin gợi ý: Nếu HT TTL cho
rằng kinh Kim Cang chỉ toàn là hý luận
lý thuyết suông, là bánh vẽ… Toàn Không nên “phản biện” lại ý này bằng cách
chứng minh dù kinh Kim Cang không do Bổn sư Thích-ca Mâu ni trực tiếp thuyết
giảng, những vẫn có căn bản Nguyên thủy từ kinh tạng Nikaya. Đây mới đúng là
“phản biện”, chứ không phải mang những kiến thức Đại thừa ra để giảng kinh
“liễu nghĩa” hay “bất liễu nghĩa”…
Nếu cảm thấy mình chưa đủ sức làm
được việc này, Toàn Không có thể dừng ngay loạt bài “phản biện” của mình…
Dưới
đây là phần nhận định của chúng tôi về Kinh Kim Cang. Toàn Không có thể “phản
biện” nhận định này, nếu thích!....
Kinh Kim Cang thuộc
văn hệ Bát-nhã Ba-la-mât-đa, xuất hiện sau Đức Phật ít nhất là 500 năm. Theo
Edward Conze, một học giả uyên thâm có những nghiêu cứu sâu rộng về bộ kinh
này, lịch trình hình thành của nó kéo dài trên 10 thế kỷ, thời gian đủ dài để
cho các thầy tổ Đại thừa tha hồ “sáng tác” thêm thắt vào…
Sau Đức Phật nhập diệt
khoảng 500 năm, Bộ Bát-nhã trong đó có kinh Kim Cang đã được lưu hành bằng văn
tự. Theo Edward Conze, phần thần chú
được thêm vào từ khoảng năm 600 đến năm 1200…
Ngày nay, giới nghiên cứu vẫn chưa thống nhất về thời điểm xuất hiện của
kinh Kim Cang. Nhưng tất cả đều đồng thuận kinh này do người đời sau chế tác chứ không phải Đức Phật thuyết giảng…
Chúng tôi không phủ
nhận tính học thuật của bộ kinh này, đặc biệt là tính triết học. Đây cũng chính
là lợi điểm thu hút giới học giả nghiên cứu văn hệ Bát-nhã.
Kinh Kim Cang được xây
dựng trên phương pháp luận lô-gic phủ
định hình thức, theo dạng thức luận lý học Aristote, vốn được xem là mâu thuẫn
trong quan hệ biện chứng nhị nguyên. Các luận sư Đại thừa đã rất tài tình chuyển đổi dạng thức nhị nguyên sang nhất
nguyên nhằm triệt tiêu tính mâu thuẫn.
Văn hệ Bát-nhã trong
đó có kinh Kim Cang trở thành một luận thuyết huyền ảo hấp dẫn, lôi cuốn nhiều
học giả tiếng tăm trên thế giới vào nghiên cứu. Đặc biệt là trong quá trình Hán
hóa, luận lý học Bát-nhã càng được trau chuốt bởi bàn tay của các Tổ sư Trung
Hoa. Ngày nay, nó đã thật sự trở thành “gương báu”, được hoàn thiện trên căn
bản lô-gíc phủ-định-hình-thức-liễu-nghĩa-siêu-hình-tưởng!
Tiền đề xác lập: A chẳng là A, do vậy A là A
Phương
trình biểu thị: Tức phi = Thị danh
Ví dụ: Toàn Không phản biện
giả, TỨC
PHI
phản biện, THỊ DANH phản biện! (Tạm hiểu: Toàn Không phản biện, tức là không có phản biện gì cả, như
thế mới thực gọi là Toàn Không đang phản biện!?)
Đức Phật không thuyết
giảng kinh Kim Cang. Đây chỉ là “tác phẩm” của các học giả Đại thừa.
Toàn Không viết: “Thật ra Kinh Kim Cang (hay Kim Cương), tên đầy đủ là Kim Cang Bát
Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita),từ
tiếng Phạn: Vajracchedika
là Kim Cang, nó có khả năng cắt
chém cứng như kim cang. Trong bối
cảnh của bài Kinh, chúng ta có thể hình
dung ra một chiếc gươm bén chắc chặt đứt các màn hình tướng để lộ ra sự
thật, cũng có thể hiểu là kinh có một sức mạnh sấm sét, một sức công phá khủng
khiếp, nhằm phá tan mọi kiến chấp.”
Thiết tưởng cái gọi là “Thật ra”, Toàn Không nên đặt vào chỗ truy nguyên bản kinh để tìm ra sự liên
hệ với giáo thuyết Nguyên thủy của Đức Bổn sư Thích-ca Mâu-ni, chứ không phải
giải thích từ ngữ để quảng bá cho “khả năng cắt chém” của nó… “Trong bối cảnh của bài kinh”
cũng phải được soi rọi bằng bối cảnh
lịch sử, chứ không phải chỉ để “hình dung ra một chiếc gươm bén”!?...
Khi chế tác kinh, các tác giả đã tưởng giải những điều cao siêu
mà tự thân các vị không làm được. Vì không làm
được nên
chưa đủ tự tin, không dám nhận mình là tác giả, bèn gán cho Phật thuyết, nhét
vào miệng ông A-nan những câu mà ông này chưa từng nói: “Tôi nghe như vậy, một thời Phật tại…”. Đây là điểm Toàn Không cần
“phản biện”, chứ không phải nhai lại bã mía của các Tổ về chuyện “liễu nghĩa”
hay “bất liễu nghĩa”…
2./ Kinh Duy Ma Cật
X). HT TTL: Kinh Duy Ma Cật là kinh phát triển của Đại Thừa.
Kinh giáo Đại Thừa là kinh sách chịu ảnh hưởng của nhiều tôn giáo khác nhau và
những phong tục tập quán của con người trên hành tinh này mà thành lập ra giáo
lý của mình; nó không có gì đặc biệt riêng của nó, chỉ khéo dùng những danh từ
thật kêu và cũng giống như vẽ rắn thêm chân, thêm râu, khiến cho mọi người dễ
bị lường gạt tưởng là rồng thật. Giáo lý Đại Thừa và Thiền Đông Độ cũng
lường gạt tín đồ như vậy, tưởng là một chân lý siêu việt của Đạo Phật, nào ngờ
là một giáo lý chắp vá, như chiếc áo may nhiều loại vải thô xấu....(ĐVXP-Tập 8)
Phản Biện của Toàn Không:
“Kinh Duy Ma Cật là
kinh của Bắc Truyền; nếu nói “Kinh
giáo Đại Thừa là kinh sách chịu ảnh hưởng của nhiều tôn giáo khác nhau và những
phong tục tập quán của con người trên hành tinh này mà thành lập ra giáo lý của
mình” thì không hoàn toàn đúng, vì nếu có đi nữa cũng chỉ như thêm màu
sắc cho hợp với từng địa phương, nhưng cốt lõi của các Kinh vẫn giữ đúng những
gì đức Phật đã nói và đó là lý do tại sao Bắc Truyền ngày nay đã lan rộng không
những chỉ ở Á châu mà ra khắp Âu Mỹ Úc Phi của thế giới. Tại sao như thế, vì
Phật giáo Bắc Truyền đi đúng với những tinh hoa mà đức Phật đã dạy, nó thích
hợp với khoa học và nhu cầu tâm linh của con người tiến bộ trong giai đoạn hiện
tại. Muốn biết Kinh Duy Ma Cất có gì đặc biệt, chúng ta phải lược sơ qua
nội dung của Kinh, chỉ đề cập tới những gì chúng ta cần phải học phải nhớ và
thực hành thì mới biết được sự thật như thế nào”.
Nhận định: Cũng như phần nói về
Kinh Kim Cang. Phần này Toàn Không cũng chỉ tầm chương trích cú, tỏ ra thông
hiểu Đại thừa để “giảng” kinh Duy-ma-cật, chứ chẳng có một lý lẽ “phản biện” nào
cho ra hồn…
Sở dĩ Toàn Không “phản biện trật đường ray” vì không chịu tìm hiểu đối
tượng, chỉ biết cái tên gọi là: “HT THL”. Chứ không hề biết con người ấy là
ai?, dạy gì?, viết gì?... Điều này không phải do chúng tôi suy đoán, mà chính
Toàn Không tự bạch trong “Lời dẫn”:
“Vào ngày 15-8-2012 tình cờ chúng tôi mở mạng lưới điện
toán của Thư Viện Hoa Sen, bất ngờ thấy một thư ngỏ đề ngày 18 tháng 12 năm
2010…”
“…Bởi vậy chúng tôi liền bắt tay vào viết để chặn đứng sự
việc vô cùng tai hại này…”
“…Chúng tôi căn cứ theo bản tóm tắt của Ban Biên Tập mạng
Thư Viện Hoa Sen mà trả lời, hy vọng sẽ góp phần trong việc bảo vệ Pháp bảo… “
Toàn Không đã vội vàng “liền bắt
tay vào viết…”, mà chỉ viết “căn cứ theo bản tóm tắt của Ban Biên Tập mạng Thư Viện Hoa
Sen…”,
chứ không cần tìm hiểu đối tượng, không cần đọc bất cứ một cuốn sách, tài liệu
nào do đối tượng viết, chỉ căn cứ vào bản tóm tắt của BBT/TVHS để phóng bút.
Vội vàng thế liệu có bảo vệ được cái gọi là “pháp bảo” của Toàn Không hay
không?... Thảo nào Toàn Không đã nhầm tưởng HT TTL đang xiển dương giáo pháp
của Phật giáo Nguyên thủy Theravada mà Toàn Không gọi là “Nguyên thủy
Nam
truyền”!???
Vì Toàn Không chỉ dựa vào câu tóm tắt của BBT/TVHS mà không chịu đọc
sách HT TTL, nên phản biện ngoài ngữ cảnh, buộc chúng tôi phải đọc giúp Toàn
Không vài đoạn, gợi ý giúp Toàn Không vài điểm phản biện cho chính xác.
HỎI: "Kính bạch Thầy! Trong lời tựa Duy Ma Cật Sở Thuyết Kinh pháp
sư Từ Thông viết: “Kinh Duy Ma Cật là bộ kinh thuộc hệ tư tưởng Đại Thừa
viên đốn là thứ giáo lý mãn tự. Giáo lí kinh Duy Ma Cật dạy cho mọi người về
pháp môn giải thoát bất tư nghì. Hành giả thực hiện được là thành Phật như đức
Phật Thích Ca và thập phương chư Phật đã thành”. Điều mà con muốn hỏi Thầy:
“Thật ra kinh Duy Ma Cật có phải là kinh Phật thuyết hay không? Nhờ Thầy chỉ
dạy cho con pháp môn giải thoát khó nghĩ bàn này".
ĐÁP: “Kinh
Duy Ma Cật là kinh Đại Thừa ca ngợi một cư sĩ Duy Ma Cật là một vị Bồ Tát
đã thành Phật, có trí tuệ bất tư nghì không thể nghĩ bàn. Vì thế không có ai lý
luận hơn Ngài được.
Kinh so sánh trí tuệ Duy
Ma Cật như trí tuệ Phật (Trí tuệ không nghĩ bàn). Vì thế không có một vị đại đệ
tử nào của Phật dám đến thăm ông, dù là đại trí tuệ đệ nhất như ông Xá Lợi Phất
cũng còn sợ hãi, khiếp đãm khi nghe nói đến đi thăm bệnh Ông. Do trí tuệ Ông
cao siêu như vậy nên đức Phật mới sai ông Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát đến thăm. Chỉ
có ngài Văn Thù Sư Lợi có đủ trí tuệ mới dám đến thăm bệnh và đối đáp với ông
mới cân xứng.
Kinh Duy Ma Cật ra đời
nhằm có ý đồ diệt Phật giáo để dựng lên một giáo pháp mới. Đó là giáo pháp bất
nhị, còn gọi là giáo pháp bất tư nghì .
Kinh Duy Ma Cật dựng lên
một người cư sĩ vĩ đại khiến cho tất cả đệ tử của đức Phật chỉ cần nghe đến tên
Duy Ma Cật là đã rét run, cúi đầu, rụt cổ như rùa, đó là những đệ tử lớn của
đức Phật như: ông Xá Lợi Phất, ông Mục Kiền Liên, ông Phú Lâu Na, ông Ca Chiên
Diên v.v... còn như vậy huống các đệ tử khác. Biết hàng đệ tử Thanh Văn của mình
trí tuệ còn kém xa nên đức Phật của kinh Duy Ma Cật phải nhờ đến một vị Bồ Tát
ảo tưởng của nhà văn Khưu Trường Xuân. Một nhà Văn Trung Hoa giàu trí tưởng
tượng, tưởng ra những nhân vật tu theo Tiên đạo. Đó là Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi
trong truyện “Phong Thần Diễn Nghĩa”.
Trong bộ truyện Phong
Thần Diễn Nghĩa có hai vị tiên ông, đệ tử của vị tiên trưởng Nguơn Thủy Thiên
Tôn. Đó là ngài Phổ Hiền và ngài Văn Thù. Trong truyện có ghi chú: hai vị tiên
ông này sau tu theo Phật giáo được đắc quả thành Phật
Đọc kinh Duy Ma Cật chúng
ta rất buồn cười cho những ai không sáng suốt vội tin theo mà không cân nhắc.
Người viết kinh Duy Ma Cật đã không khéo léo, nên kinh được dấu đầu, mà lại ló
đuôi khiến cho người có trí một chút là đã tìm cái giả mạo của kinh.
Kinh Duy Ma Cật là một
tập tiểu thuyết lý luận triết lý bất nhị, khéo mượn những nhân vật tiểu thuyết
Trung Hoa lồng vào kinh để lôi cuốn hấp dẫn người đọc.
Cho nên, đọc xong kinh
Duy Ma Cật người có sự nhận xét tinh vi một chút thì biết ngay kinh này không
phải Phật thuyết, kinh này chỉ do các Tổ viết ra để diệt Phật giáo, nếu các bạn
lưu ý sẽ nhận ra điều giả mạo và có ý đồ thâm độc này.
Đạo Phật ra đời đã làm
đảo lộn tư tưởng của loài người bằng bốn sự thật: “Khổ, Tập, Diệt,
Đạo”. Bốn chân lí độc đáo này đã có sẵn của loài người. Ngài chỉ cần khơi
dậy khiến cho tất cả giáo lý của các tôn giáo và các triết lý của những nhà
triết học hiện hành trên hành tinh này đã đổ vỡ, trở thành những ảo tưởng. Thế
mà lại có một pháp môn bất nhị không hai này lại bảo rằng Phật thuyết, thì e rằng
rất oan cho đức Phật. Đức Phật bao giờ nói chuyện giáo pháp không tưởng như
vậy. Mới nghe mọi người tưởng là mới mẻ của kinh sách Đại Thừa được diễn tả
trong kinh Duy Ma Cật, nhưng nào ngờ giáo pháp ấy cũ rích của Bà La Môn xưa
kia. Trong khi kinh sách Nguyên Thủy còn ghi lại lời đức Phật đã dạy, Ngài đập
sạch và quét 62 lập luận tà giáo ảo tưởng của Bà La Môn không còn ngoi đầu dậy
được nữa.
Thế mà, kinh Duy Ma Cật
lại bảo kinh này Phật thuyết như trên đã nòi thì có ai mà tin không? Chỉ có
những người không đủ trí quán xét thì mới tin như vậy.
Kinh đã không phải Phật
thuyết thì pháp môn giải thoát khó nghĩ bàn cùng không phải của Phật. Đó là một
pháp tưởng của ngoại đạo.
Thưa các bạn! Đừng
bao giờ đem pháp môn cao siêu mà gán cho Phật, vì pháp Phật không có cao siêu,
chỉ là những pháp môn rất gần gũi với đời sống của con người, nên
nó “…thiết thực, cụ thể không có thời gian đến để mà thấy...”
Pháp môn không thể nghĩ
bàn tức là pháp môn với ý thức không thể hiểu được là một pháp môn ảo tưởng; là
một pháp môn nói vọng ngữ.
Pháp môn của Phật là pháp
môn đem ra dạy cho người tu tập để mang lại lợi ích cho con người, sống không
làm khổ mình khổ người và khổ cả hai, còn pháp môn không thể nghĩ bàn thì làm
sao hiểu được, mà đã không hiểu được thì làm sao tu tập được; mà đã không tu
tập được thì làm sao có giải thoát được. Như vậy pháp môn bất tư nghì là pháp
môn lừa đảo con người. Còn nếu bảo rằng pháp môn này để dạy chư Phật và các bậc
A La Hán thì chư Phật và các bậc A La Hán đâu cần phải tu pháp môn này, vì các
Ngài đã chứng đạt chân lí giải thoát hoàn toàn, làm chủ sanh tử chấm dứt luân
hồi. Cho nên các Ngài đối với pháp môn không nghĩ bàn này là một pháp môn hý
luận cho vui chơi, chứ có lợi ích gì cho cuộc sống của loài người đâu. Vì các
ngài biết đó là pháp môn vọng ngữ, lừa đảo con người chứ không thể lừa đảo các
Ngài được. Phải không các bạn?
Nghe nói đến pháp môn khó
nghĩ bàn là biết ngay pháp môn nói dối. Cho nên khi nghe Bồ Tát Duy Ma Cật
nói: “Bồ Tát bệnh vì chúng sanh bệnh” thì biết ngay Bồ Tát Duy Ma Cật
không hiểu Phật giáo, nên mới nói câu ấy. Người không hiểu Phật giáo mà lại nói
kinh này của Phật thuyết là sai. Đạo Phật là đạo tự cứu mình chứ không ai
cứu mình được. Vì thế lời tuyên bố của kinh Duy Ma Cật chứng tỏ là Ông chẳng
hiểu gì về đạo Phật chút nào cả. Đức Phật đã chẳng bảo: “Nếu ta nói một
điều mà không ai hiểu là ta có nói láo”: Vậy mà ở đây nói pháp môn không nghĩ
bàn là nói láo. Có đúng không các bạn?
Vậy pháp môn giải thoát
khó nghĩ bàn là pháp môn nói láo, pháp môn này chỉ gạt người vô minh, chứ
người nào chỉ cần có một chút hiểu biết cũng không thể lừa đảo họ được.
Pháp môn giải thoát khó
nghĩ bàn là pháp môn lừa đảo như trên đã nói, chỉ có những người sống trong
tưởng tri nên mới dễ tin pháp môn này.
Pháp môn này chỉ lý luận chơi
cho vui chứ chưa có ai sống được, vì con người là có sự tư duy suy nghĩ, chứ
con người không phải đất, đá, cỏ, cây v.v....
Như trên đã nói kinh Duy
Ma Cật là kinh tưởng, vì thế trưởng giả Duy Ma Cật là người tưởng, chứ không
phải là người có thật. Căn cứ vào lịch sử loài người thì cư sĩ Duy Ma Cật không
có. Cho nên tác giả kinh Duy Ma Cật khéo tưởng tượng ra nhân vật và pháp môn
bất tư nghì .
Kính thưa các bạn! Những
pháp môn đức Phật dạy trong kinh Nguyên Thủy, như pháp môn Hơi Thở rõ ràng như
vậy mà các bạn còn tu tập sai tới, sai lui, huống hồ là pháp môn khó nghĩ bàn
của Duy Ma Cật thì biết đâu mà tu tập. Phải không các bạn?
Cho nên kinh Duy Ma Cật
là kinh vọng ngữ. Và tu tập pháp môn Bất Tư Nghì để làm gì? Để lý luận
tranh đua hơn thiệt với thiên hạ ư! Đạo Phật không có mục đích đó. Xin các bạn
lưu ý.”
Tạm kết: Duy-ma-cật
là một nhân vật hư cấu do các học giả Đại thừa dựng lên. Nơi xảy ra câu chuyện
“thăm bệnh” là cảnh giới siêu hình tưởng không có thật. Phật, Bồ-tát trong kinh
cũng là Phật, Bồ-tát ảo, không phải Đức Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni…
Khi Giáo pháp Nguyên thủy của Đức
Phật chủ trương nếp sống đạo đức phạm hạnh, thiểu dục tri túc, ba y một bát,
độc cư phòng hộ sáu căn, ly dục ly ác pháp. Thì các hệ phái thuộc phong trào
vận động Đại thừa dựng lên hình ảnh của một ông Cư sĩ trái ngược, vợ đẹp con
ngoan, giàu có, tự do phóng khoáng, tự tại vô ngại đi mây về gió. Đồng thời họ
cũng dựng thêm một ông Bồ-tát tưởng Văn Thù đến “thăm bệnh” đề bàn luận về “Bất
nhị pháp môn” nhằm triệt hạ uy tín của các đại đệ tử như Tu-bồ-đề, Xá-lợi-phất…,
với thâm ý triệt tiêu giáo pháp Nguyên thủy của đức Bổn sư…
Nếu Toàn Không vẫn còn
muốn nhận Đức Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni làm Bổn sư, thì nên quên mấy ông
Phật tưởng, Bồ-tát tưởng phi lịch sử như ông Duy-ma-cật, Văn-thù-sư-lợi… Nhưng
nếu còn muốn bám vào các vị ấy, hãy cố gắng chứng minh những giáo pháp mà các
vị ấy dạy như “bất nhị pháp môn” cũng có căn bản từ lời Đức Phật dạy trong kinh
tạng Nguyên thủy Nikaya.
Chúng tôi sẽ ngưng
không viết nữa nếu Toàn Không tiếp tục thuyết giảng Đại thừa, mà quên đi phần
chứng minh cần thiết giáo nghĩa Nguyên thủy từ kinh tạng Nikaya trong phản biện
của mình…
Quảng Hạo
Quảng Hạo
Theo GIỌT NẮNG CHƠN NHƯ
0 nhận xét :
Đăng nhận xét