|
PHẦN 3
"Tuyệt đối đừng làm gì, và cứ xem
hơi thở êm dịu, đẹp đẽ và phi thời
gian xảy ra như thế nào."
Phần 1 và 2 mô tả bốn giai đoạn đầu của sự
hành thiền. Đó là:
1) Chú tâm vững bền vào thời khắc hiện tại.
2) Giác niệm tĩnh lặng vào thời khắc hiện tại.
3) Giác niệm tĩnh lặng trong hiện tại về hơi thở
4) Hoàn toàn chú tâm vững bền vào hơi thở.
Mỗi giai đoạn cần được tập luyện và
phát triển đầy đủ, trước khi bước sang giai
đoạn kế tiếp. Khi một người quá vội vàng
đi lướt qua các "giai đoạn xả ly" này,
người ấy không thể nào đạt đến các giai đoạn
cao hơn. Cũng tựa như xây cất ngôi nhà lầu cao với một nền móng
không đủ vững chắc. Tầng thứ nhất được xây
quá nhanh, và tầng thứ hai, thứ ba cũng vậy.
Đến khi xây thêm tầng thứ tư, cả kiến
trúc bắt đầu thấy lung lay. Khi gắng xây thêm
tầng thứ năm, cả ngôi nhà
đổ sập xuống. Vậy, xin hãy dành thật
nhiều thì giờ cho bốn giai đoạn tiên
khởi, làm cho chúng thật kiên cố và vững chắc, trước khi bước sang giai
đoạn thứ năm. Bạn phải có đủ khả năng để duy
trì giai đoạn thứ tư, "hoàn
toàn chú tâm vững bền vào hơi thở", theo dõi mỗi lúc của hơi thở,
không gián đoạn lần nào, trong hai hay
ba trăm hơi thở luôn một loạt, một cách thật
thoải mái. Tôi không nói là phải
đếm hơi thở trong giai đoạn này,
nhưng tôi chỉ đưa ra một ước tính về khoảng
thời gian mà thiền sinh cần an trụ trong giai
đoạn thứ tư, trước khi tiến xa hơn. Trong
việc hành thiền, kiên nhẫn bao giờ cũng là phương cách nhanh nhất!
Giai đoạn thứ năm được gọi là
"hoàn toàn chú tâm vững bền vào hơi thở tuyệt
đẹp". Thông thường, giai
đoạn thứ năm trôi chảy một cách tự nhiên,
thông suốt, từ giai đoạn trước. Khi thiền
sinh hoàn toàn chú tâm thể nghiệm hơi thở, một cách liên tục thoải
mái và không có điều chi làm gián
đoạn dòng chảy giác niệm, hơi thở sẽ
trở nên êm dịu. Từ dạng thô kệch, tầm thường, hơi thở biến thành êm dịu,
an hòa và "tuyệt đẹp". Tâm nhận ra ngay hơi
thở tuyệt đẹp đó và thích thú với nó. Tâm thể nghiệm
được một sự hài lòng sâu sắc. Tâm hoan
hỷ, chỉ ở đấy để quan sát hơi thở tuyệt đẹp này.
Tâm không cần phải bị thúc dục hay ép buộc. Nó tự ý an trụ nơi hơi thở
tuyệt đẹp. "Bạn" chẳng cần làm
gì cả. Nếu bạn cố thử làm chút gì vào giai
đoạn này, bạn sẽ khuấy rối toàn bộ tiến trình, sự
đẹp đẽ sẽ bị mất ngay; cũng tựa như trong trò
chơi "con rắn và cái thang", bạn lọt vào ô vuông "đầu
rắn" thì bạn phải trở ngược lại nhiều ô vuông ở phía sau.
"Tác nhân" (người làm, người tạo tác) cần phải biến mất từ giai
đoạn hành thiền này trở về sau, chỉ
còn "Tri nhân" (người nhận biết)
đang quán sát một cách thụ động.
Có một xảo thuật tốt để giúp ta đạt đến
giai đoạn này, là phá vỡ sự im lặng nội tại, chỉ một lần thôi, bằng
cách nhẹ nhàng tự nhủ: "Hãy êm dịu!". Chỉ thế thôi! Ở giai
đoạn này của sự hành thiền, tâm thường
rất nhạy cảm, đến nỗi chỉ cần nhắc nhở nhẹ nhàng
như thế, cũng đủ khiến cho tâm tuân theo chỉ
thị một cách ngoan ngoãn. Hơi thở dịu lại, và hơi thở "tuyệt
đẹp" liền khởi lên.
Khi bạn đang thụ động quán sát hơi thở
tuyệt đẹp trong thời khắc này, sự nhận biết về hơi thở vào,
hơi thở ra, hoặc hơi thở ở đoạn đầu, đoạn
giữa, hay đoạn cuối, kể như đã được
cho phép biến mất. Những gì đang được
hay biết chỉ là sự thể nghiệm về hơi thở tuyệt
đẹp đang diễn ra đây. Tâm không còn
chú ý đến việc hơi thở đang ở trong giai đoạn
nào của chu trình hô hấp, hoặc đang
xảy ra tại nơi nào trong cơ thể. Ngay
đây, ta đang đơn giản hóa đề mục của sự hành thiền, tức là sự thể
nghiệm về hơi thở trong hiện tại, lột bỏ hết tất cả các chi tiết không cần
thiết, vượt qua tính nhị nguyên của "vào" và "ra", và chỉ giác niệm về hơi
thở tuyệt đẹp, đang xảy ra rất êm dịu
và liên tục, hầu như chẳng thay đổi chút nào.
Tuyệt đối đừng làm gì cả, mà chỉ
ngắm nhìn hơi thở êm dịu, đẹp đẽ và
phi thời gian xảy ra như thế nào. Hãy xem bạn có thể
để cho nó được êm dịu
đến mức nào. Hãy
để thì giờ ra mà thưởng thức vị ngọt
của hơi thở tuyệt đẹp, càng êm dịu,
ngọt ngào hơn bao giờ hết.
Giờ đây, hơi thở sẽ biến mất, chẳng phải
khi "bạn" muốn nó phải như thế, mà khi nó
đã có đủ
mức êm dịu, và chỉ lưu lại sự "đẹp đẽ"
thôi. Một thí dụ trong văn chương Anh có thể giúp ta hiểu rõ thêm.
Trong quyển Alice in Wonderland (Alice ở xứ sở diệu kỳ) của Lewis
Carroll, cô Alice và Hồng Hậu nhìn thấy một ảo ảnh giống hình chú mèo
Cheshire, đang mỉm cười, hiện lên trên
nền trời. Khi họ quan sát, thì trước hết,
đuôi mèo biến mất, kế đó đến các móng
nhọn, rồi tiếp theo là các phần còn lại của bốn chân. Chẳng mấy
chốc, thân hình mèo cũng hoàn toàn mất dạng, chỉ sót lại
đầu mèo thôi, mà vẫn nở nụ cười. Rồi
thì cả cái đầu cũng mờ hẳn, từ đôi tai cho
đến chòm râu vểnh ngược vào trong, và sau cùng, cả
đầu chú mèo cũng tiêu tan hết -- ngoại
trừ nụ cười vẫn còn lưu lại trên nền trời! Đó
là một nụ cười chẳng thấy có đôi môi
để nở thành nụ, tuy vậy, vẫn là một nụ cười còn trông thấy
được. Đây là một sự tương
đồng rất chính xác với tiến trình xả
ly xảy ra ở vào giai đoạn này của sự
hành thiền. Chú mèo với nụ cười trên gương mặt tượng trưng cho hơi thở
tuyệt đẹp. Chú mèo biến mất tượng
trưng cho hơi thở mất dạng. Nụ cười phi thể chất mà vẫn còn thấy
được trên nền trời, tượng trưng cho
đối tượng tâm thuần tịnh, "vẻ đẹp" có thể
thấy rõ ràng trong tâm.
Đối tượng tâm thức thuần tịnh đó được gọi là một
định tướng -- nimitta. Chữ Pàli
"nimitta" có nghĩa là một dấu hiệu; ở
đây, là một dấu hiệu trong tâm. Đây là
một đối tượng có thật trong tâm
(citta), và khi xuất hiện lần đầu, nó
rất lạ lùng. Từ trước, ta chưa hề có kinh nghiệm về một
đối tượng nào như vậy. Tuy nhiên, hoạt
động của tâm mà ta gọi là "sự tri
giác" -- hay tưởng uẩn, đã
tìm tòi, trong ngân hàng ký ức của kinh nghiệm sống, một chút gì tương tự
để cống hiến một sự mô tả cho tâm.
Đối với nhiều thiền sinh, cái "vẻ đẹp phi
thể chất" đó, cái niềm vui tinh thần đó, được cảm nhận như một ánh sáng
huy hoàng. Nó thực sự chẳng phải là ánh sáng.
Đôi mắt được nhắm kín và nhãn thức
cũng đã
đóng lại từ lâu rồi. Đó chính là tâm thức lần
đầu tiên
được thoát khỏi cảnh giới của năm giác quan. Đó cũng tựa như vầng trăng tròn
-- tượng trưng cho cái tâm rạng chiếu -- vừa ló ra khỏi một
đám mây -- tượng trưng cho cảnh giới của năm
giác quan. Đó chính là tâm tỏ rạng, không phải là ánh sáng,
nhưng với đa số chúng ta thì nó hiện
ra như một ánh sáng, nó được cảm nhận như ánh
sáng, bởi vì sự mô tả chưa hoàn hảo này là sự mô tả khá nhất mà tri
giác có thể cung hiến được.
Đối với các thiền sinh khác, để mô tả sự xuất hiện đầu tiên của
tâm thức, tri giác thường chọn dạng các cảm giác thể chất, ví dụ như một
sự an tịnh thâm trầm hay là sự xuất thần đê
mê (ectasy). Lại nữa, thân thức (sự hay biết và cảm nhận
được lạc thú hay đau khổ, nóng hay lạnh,
v.v...) được khép kín từ lâu, và vì thế,
đây chẳng phải là một cảm giác vật
chất. Nó chỉ được "cảm nhận" giống như những
lạc thú. Vài người khác lại thấy một ánh sáng trắng, hoặc một ngôi
sao vàng, hoặc một viên bích ngọc, v.v...;
điều quan trọng nên biết là họ đang mô
tả cùng chung một hiện tượng. Họ đều
thể nghiệm chung một đối tượng tâm thức thuần tịnh, và các chi tiết
không giống nhau đó đã
được sự tri giác khác biệt của từng người đem
thêm vào.
Bạn có thể nhận chân ra một định tướng
(nimitta) do sáu đặc
điểm:
1) Nó chỉ hiện ra sau giai đoạn thứ năm
của hành thiền, sau khi thiền sinh an trú với hơi thở tuyệt
đẹp trong một thời gian dài;
2) Nó hiện ra khi hơi thở biến mất;
3) Nó chỉ đến khi năm giác quan bên
ngoài về hình sắc, âm thanh, mùi, vị và xúc chạm hoàn toàn vắng mặt;
4) Nó chỉ khởi hiện trong một tâm thức tĩnh lặng, khi các tư tưởng mô
tả (lời nói nội tâm) hoàn toàn vắng bặt;
5) Nó rất lạ lùng, nhưng hấp dẫn mạnh mẽ; và
6) Nó là một đối tượng đơn giản và
tuyệt đẹp.
Tôi nêu các đặc điểm đó để bạn có thể phân
biệt được định tướng (nimitta) thực sự với
những "tướng" do tưởng tượng mà có.
Giai đoạn thứ sáu được gọi là
"thể nghiệm định tướng mỹ lệ".
Chúng ta đạt đến giai đoạn này khi
ta buông bỏ được thân thể, tư tưởng, và
năm giác quan (kể cả sự giác niệm về hơi
thở), một cách thật hoàn toàn, cho đến
mức chỉ còn riêng có định tướng
mà thôi.
Đôi khi, khi định tướng khởi lên lần
đầu, nó có vẻ còn lờ mờ. Trong trường
hợp này, ta nên quay lại ngay với giai đoạn
trước của sự hành thiền, tức là giai
đoạn của sự giác niệm tĩnh lặng liên tục về hơi thở tuyệt
đẹp; vì ta
đã đi đến
định tướng quá sớm. Đôi khi, định
tướng tỏ rạng, nhưng lại chẳng vững, chớp tắt giống như tia sáng của ngọn
hải đăng, rồi biến mất. Đây cũng cho thấy bạn đã rời hơi thở tuyệt
đẹp sớm quá. Bạn phải đủ khả năng nuôi dưỡng
sự chú tâm đến hơi thở tuyệt đẹp một cách thoải mái trong thời gian thật dài,
thật lâu, trước khi tâm đủ sức duy trì
sự chú ý rõ ràng đến định tướng, vốn tế nhị
bội phần hơn nữa. Vì vậy, bạn hãy huấn luyện tâm về hơi thở tuyệt
đẹp, huấn luyện kiên nhẫn và mẫn cán,
rồi khi đến lúc hướng đến định tướng, nó sẽ
rạng chiếu, vững chắc, và dễ nuôi dưỡng lâu bền.
Lý do chính khiến cho định tướng còn
lờ mờ là vì sự hài lòng vẫn còn nông cạn. Bạn vẫn còn
đang "muốn" một
điều gì. Thông thường, bạn muốn có một
định tướng sáng tỏ, hay bạn muốn đắc Thiền-na
(Jhàna). Nên nhớ, và điều này
rất quan trọng, Thiền-na là những trạng thái của xả ly, những trạng thái
bằng lòng thỏa ý vô cùng sâu xa. Vậy, bạn hãy vất
đi cái tâm khao khát, hãy phát triển
sự thỏa ý với hơi thở tuyệt đẹp, và
rồi, định tướng và Thiền-na sẽ tự khắc
xảy đến.
Nói cách khác, lý do tại sao định tướng còn
yếu ớt là vì "tác nhân" cứ xen vào mãi, chẳng chịu ngừng. "Tác nhân" là
kiểm soát viên, là tài xế ở ngồi ghế sau, luôn xen vào các việc chẳng
ăn nhập đến mình, và làm cho mọi việc
càng rối rắm thêm. Sự hành thiền là một tiến trình tự nhiên tiến
đến nghỉ ngơi, và nó
đòi hỏi bạn phải hoàn toàn
tránh sang một bên. Sự hành thiền thâm sâu chỉ thực hiện
được khi bạn thực sự buông bỏ; và
thực sự buông bỏ có nghĩa là đến
mức mà trọn cả tiến trình hành thiền trở nên hoàn toàn ngoài vòng
xâm nhập của "tác nhân".
Một phương tiện khéo léo để đạt được sự
buông bỏ tuyệt đối đó, là thành tâm
đặt trọn lòng tin vào định tướng. Bạn
hãy làm gián đoạn sự tĩnh lặng lại
trong một lát, và bằng một cách thật hết sức dịu dàng, nói rỉ tai,
như thể là nó đang ở trong tâm bạn, rằng bạn
đem trọn lòng tin đặt vào
định tướng, khiến cho "tác nhân" phải từ bỏ
tất cả sự kiểm soát và biến mất. Tâm,
được biểu hiện ở đây bằng cái định tướng trước mắt bạn, sẽ đảm đương trọn
cả tiến trình, trong khi bạn chỉ quan sát mọi việc tuần tự xảy ra.
Bạn không cần phải làm gì ở đây, vì
vẻ đẹp rực rỡ của định tướng dư sức để duy trì
sự chú tâm mà chẳng cần bạn giúp đỡ. Đến đây,
nên cẩn thận đừng khởi lên nhận
định phê phán. Các câu hỏi như: "Cái
gì vậy?", "Đó có phải là Thiền-na chăng?",
"Rồi ta phải làm gì nữa đây?", v.v...,
đều là những công cụ để "tác nhân" tìm
cách xen vào lần nữa. Chúng khuấy rối cả tiến trình. Bạn chỉ có thể nhận
định, phê phán, một khi cuộc hành
trình đã chấm dứt. Một nhà khoa học
giỏi chỉ nhận định khi thí nghiệm đã
xong, với các dữ kiện được nắm vững. Vậy thì,
giờ đây, bạn đừng nhận định, cũng đừng cố
giải thích. Bạn không cần phải chú ý đến đường nét của định tướng, "Nó tròn
hay bầu dục?", "Đường viền của nó rõ
hay mờ?"... Những điều đó chẳng cần thiết
chi, mà chỉ đem đến nhiều sự bất đồng
hỗn tạp, nhiều nhị nguyên đối đãi
"nội tại" với "ngoại tại", và nhiều sự phiền nhiễu khác.
Hãy để cho tâm hướng về nơi mà nó
muốn, thông thường là hướng về trung tâm điểm
của định tướng. Trung tâm điểm đó là nơi
điểm cao của vẻ mỹ lệ, nơi mà ánh sáng
rạng rõ và tinh thuần nhất. Hãy đi và
tận hưởng chuyến nhàn du thích thú, trong khi sự chú ý
được kéo về trung tâm điểm và rơi
đúng vào trong
định tướng; hoặc trong khi ánh sáng rạng rỡ
tỏa khắp chung quanh, bao trùm trọn người bạn. Thật ra,
đó cùng là một kinh nghiệm cảm nhận từ
các góc độ khác nhau. Bạn hãy
để tâm tràn ngập trong hỷ lạc. Hãy
để cho giai đoạn thứ bảy của con đường hành
thiền này, Thiền-na thứ nhất (Sơ Thiền), diễn ra.
Có hai trở ngại thông thường tại ngưỡng cửa
đi vào Thiền-na: mừng rơn và sợ hãi.
Mừng rơn là trở nên quá khích động. Nếu vào
lúc ấy, tâm nghĩ, "Chà! Chà! Chính là nó
đấy!", thế là Thiền-na sẽ khó xuất hiện. Cái phản ứng "Chà! Chà!"
đó cần phải được dẹp bỏ, để giúp cho tâm được
thụ động tuyệt đối. Hãy gát cái "Chà! Chà!" lại cho
đến khi nào bạn xuất ra khỏi Thiền-na,
rồi thốt lên thì mới thật đúng lúc. Nhưng trở
ngại quan trọng hơn, có lẽ là sự sợ hãi. Sợ hãi khởi lên ngay tại
lúc nhận diện ra sức mạnh và hỷ lạc của Thiền-na, hoặc ở sự nhận thức
rằng, để đi vào trọn vẹn trong
Thiền-na, cần phải bỏ lại phía sau một cái gì
đó -- và cái đó chính là ...
Bạn! "Tác nhân" tuy đã im lặng trước
khi nhập Thiền-na, nhưng nó vẫn còn đó. Bên
trong Thiền-na, "tác nhân" hoàn toàn biến mất. "Tri nhân" vẫn còn hoạt
động, bạn vẫn hoàn toàn hay biết,
nhưng tất cả quyền kiểm soát, giờ đây, vuột
khỏi tầm tay rồi. Bạn chẳng thể khởi lên mỗi một tư tưởng nào, nói
chi là lấy một quyết định. Ý chí bị đông cứng
lại, và điều này dường như rất
đáng sợ cho người mới bắt đầu. Từ trước đến
nay, trong trọn đời bạn, có bao giờ bạn thể nghiệm một tình trạng
bị tước hết mọi quyền kiểm soát, trong khi vẫn còn hoàn toàn tỉnh táo,
không? Sự sợ hãi đó chính là sự sợ hãi
phải dâng nộp một điều thật thiết yếu, thật
riêng tư, đó là ý chí muốn tác
động.
Sự sợ hãi này có thể khuất phục được bằng
lòng tin vào lời dạy của Đức Phật, cùng
với sự hỷ lạc đầy quyến rủ mà thiền
sinh xem như là phần thưởng còn đang chờ đón.
Đức Phật thường bảo, "Sự hỷ lạc của Thiền-na, chẳng nên lo sợ, mà
cần nên thuận theo, phát triển và thực tập luôn." (Kinh Latukikopama -
Ví dụ chim Cáy, kinh số 66, Trung bộ kinh). Vậy, trước khi sự sợ hãi
khởi lên, bạn hãy đặt trọn niềm tin vào
sự hỷ lạc đó và giữ vững niềm tín
thành nơi lời giáo huấn của Đức Phật và
các vị Đại đệ tử của Ngài. Tin tưởng
nơi Chánh Pháp, và cứ để cho Thiền-na nồng nàn
ôm lấy bạn để có được một kinh nghiệm chẳng
cần nỗ lực, phi thân thể, phi tự ngã, hỷ lạc sâu xa nhất trong
đời bạn. Hãy có
đủ can đảm để vứt bỏ quyền kiểm soát trong
một chốc, và thể nghiệm được tất cả
các điều đó cho riêng bạn.
Nếu thật sự đó là Thiền-na, thì nó
kéo dài một thời gian lâu. Chẳng đáng gọi là
Thiền-na, nếu chỉ kéo dài chừng vài phút. Thông thường, các cấp Thiền-na
cao hơn sẽ kéo dài nhiều giờ. Một khi đã
vào trong Thiền-na rồi, thì chẳng còn sự chọn lựa gì nữa. Bạn sẽ xuất
Thiền-na khi nào tâm sẵn sàng đi ra khỏi, khi
chất "nhiên liệu" về sự từ khước, được
gom góp để dành bấy lâu, nay được dùng
cạn hết. Các trạng thái tâm an định và
sung mãn, do tự bản chất của chúng, sẽ kéo dài một thời gian thật lâu. Một
đặc điểm khác là Thiền-na chỉ khởi lên
khi nào định tướng được nhận ra thật rõ
ràng, như đã mô tả ở trên. Hơn nữa,
bạn cũng nên biết, trong Thiền-na, không thể nào thể nghiệm
được chính thân thể (ví dụ như sự đau đớn thể
chất), nghe tiếng động bên ngoài hoặc phát lên một tư tưởng nào, dù
là một tư tưởng thiện đi nữa. Bấy giờ chỉ là
một tri giác trong sáng duy nhất, một thể nghiệm hỷ lạc phi nhị nguyên kéo
dài, không thay đổi trong một thời gian thật
lâu. Đó không phải là một trạng thái xuất thần (trance),
nhưng là một tình trạng tỉnh thức cao độ. Tôi
nói ra như thế là để giúp bạn có thể
tự mình biết được những gì bạn
cho đó là Thiền-na, có phải thực sự là
Thiền-na không, hay chỉ là do tưởng tượng.
* * *
Pháp hành thiền còn rất nhiều việc nữa, nhưng ở
đây chỉ mô tả phương pháp căn bản qua bảy
giai đoạn, với đỉnh cao là Sơ Thiền. Còn nhiều
điều nữa có thể bàn
đến, như về Năm Triền Cái (Nìvarana)
và làm cách nào để khuất phục chúng, về ý
nghĩa của sự giác niệm và cách ứng dụng, Bốn Niệm Xứ (Satipatthàna),
Bốn Như Ý Túc (Iddhipàda), Năm Căn
(Indriya), và dĩ nhiên, về các tầng Thiền-na cao hơn. Tất cả
các điều đó đều liên quan
đến sự thực tập hành thiền này, nhưng
xin dành lại cho một dịp khác.
Với những ai hiểu lầm rằng đây chỉ là
Samatha (thiền Chỉ), không liên hệ chi
đến Vipassanà (thiền Quán), xin hãy biết cho rằng
đây không phải Samatha hay Vipassanà
gì cả. Pháp hành này được gọi là
Bhàvanà (pháp Tu Thiền), phương pháp
được Đức Phật chỉ dạy và
được thực hành trong truyền thống Sơn
Lâm (Forest Tradition) ở miền Đông Bắc
Thái Lan, mà Thầy tôi, ngài Ajahn Chah là một thành viên. Ngài
Ajahn Chah thường dạy, Chỉ và Quán không thể nào tách rời ra
được, và cũng không thể nào phát triển
cặp đôi đó mà bỏ qua Chánh Kiến, Chánh
Tư duy, Chánh Nghiệp và các chi kế tiếp của Bát Chánh
Đạo. Thật vậy, để có thể tiến bộ trong bảy
giai đoạn trên, thiền sinh cần phải thấu hiểu và thực hành giáo
pháp của Đức Phật, và giữ giới hạnh
thật thanh tịnh. Sự minh triết rất cần cho mỗi giai
đoạn, và
đó là sự minh triết về buông bỏ, xả ly. Thiền sinh tiến
triển càng xa trên bảy giai đoạn đó, thì
trí tuệ minh triết càng thâm viễn, và nếu bạn
đã đạt tới Thiền-na, thì
Thiền-na sẽ làm thay đổi toàn thể sự
hiểu biết của bạn. Cũng tựa hồ như, Minh triết múa quanh Thiền-na và
Thiền-na cũng múa quanh Minh triết. Đây là
con đường đi đến Niết-bàn, bởi vì
Đức Phật có nói, "Người nào sống hỷ
lạc trong Thiền-na, có thể sẽ có bốn kết quả: Dự lưu, Nhất lai, Bất lai và
A-la-hán" (Kinh Thanh tịnh - Pàsadìka Sutta, kinh số 29, Trường bộ kinh).
Đối chiếu
thuật ngữ Anh-Việt
Ajahn (Acariya) |
A-xà-lê, Thầy, Sư |
Attention |
Chú tâm, chú ý. |
Bhavana |
Tu thiền, luyện tâm |
Beautiful breath |
Hơi thở mỹ lệ, hơi thở tuyệt
đẹp. |
Deep meditation |
Mức thiền thâm sâu. |
Experience |
Kinh nghiệm, thể nghiệm |
First Jhana |
Thiền-na thứ nhất, Sơ Thiền |
Full sustained attention on the breath |
Hoàn toàn chú tâm vững bền vào hơi thở. |
Insight |
Minh triết |
Interview |
Phỏng vấn, trình pháp |
Jhana |
Thiền-na |
Meditation |
Hành thiền |
Meditation retreat |
Khóa thiền ẩn cư, thiền tích cực |
Nimitta |
Định tướng |
Perception |
Tri giác |
Present moment awareness
(mindfulness sustained in the present moment) |
Giác niệm về thời khắc hiện tại |
Samatha |
Thiền chỉ, thiền an chỉ |
Silent awareness of the present moment |
Giác niệm tĩnh lặng về thời khắc hiện tại |
Stillness |
An trụ, an
định, bất động |
Sustained attention on the breath |
Chú tâm vững bền vào hơi thở. |
The Doer |
Tác nhân, người tạo tác. |
The Knower |
Tri nhân, người nhận biết. |
Vipassana |
Thiền quán, thiền minh sát |
-ooOoo-
|
0 nhận xét :
Đăng nhận xét